Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA – Environmental Protection Agency) đã ban hành kết quả đánh giá toàn diện về sức khỏe con người và môi trường cho toàn bộ các loại thuốc diệt cỏ 2,4–D, theo chương trình tái đăng ký thuốc trừ sâu đã được cấp phép của EPA.
2,4–D là một loại thuốc diệt cỏ phenoxy phát minh sáu mươi năm trước đây và sử dụng hiện nay trên toàn thế giới trong một loạt các ứng dụng trong môi trường nông nghiệp, đất không canh tác, khu dân cư và thực vật thủy sinh. Hiện nay hơn 600 tên thương phẩm được đăng ký để sử dụng trên hơn 300 địa điểm khác nhau.
Sau khi xem xét các nguy cơ kết hợp từ tiếp xúc thông qua thực phẩm, nguồn nước và nước sạch cho người dân sử dụng, với khẳng định chắc chắn, EPA kết luận rằng 2,4–D đã “không vượt quá” mức độ quan tâm của EPA. Bên cạnh đó, EPA kết luận rằng “không phải lo lắng” về độ độc cấp tính và mức độ phơi nhiễm khi người dân sử dụng 2,4–D cho các bãi cỏ trong vườn theo đúng hướng dẫn.
Việc thông báo và phát hành các Quyết định đủ tiêu chuẩn để tái đăng ký (Reregistration Eligibility Decision – RED) trên 2,4–D của EPA là kết quả một quá trình xem xét trong 17 năm. Tài liệu về 2,4–D lần này của EPA kết luận rằng 2,4–D không phải là nỗi rủi ro hiện hữu liên quan đến sức khỏe của con người khi làm theo hướng dẫn được nêu trong tài liệu RED. Trong suốt 17 năm qua (Tác giả: kể từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước), Task Force II1 đã nộp cho EPA hơn 300 kết quả nghiên cứu về độc tố, môi trường và dư lượng được thực hiện bởi các phòng thí nghiệm chuẩn (GLP – Good Laboratory Practice) để các nhà khoa học EPA xem xét đánh giá sự an toàn của thuốc trừ cỏ 2,4–D theo Đạo luật Liên bang về thuốc trừ côn trùng, nấm và chuột (FIFRA – Federal Insecticide Fungicide and Rodenticide Act) và Đạo luật Bảo vệ chất lượng thực phẩm (FQPA – Food Quality Protection Act ).
Cùng với việc đánh giá các dữ liệu khoa học về con người và môi trường thì việc thẩm định của các chuyên gia đã củng cố nhiều quyết định quản lý của EPA với kết luận rằng việc sử dụng 2,4–D theo hướng dẫn trên nhãn không thể hiện nguy cơ không thể chấp nhận đến sức khỏe con người hoặc môi trường. Kết quả toàn diện của EPA là phù hợp với quyết định của cơ quan chức năng khác như Tổ chức Y tế Thế giới, Bộ Y tế Canada, Ủy ban châu Âu và các nghiên cứu gần đây của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ trên 2,4–D.
Quyết định đủ tiêu chuẩn để tái đăng ký của EPA bao gồm nghiên cứu tổng thể động vật và dữ liệu của con người, sau này theo hình thức nghiên cứu dịch tễ học.
Các yếu tố chủ chốt của RED
Dưới đây là quan điểm của EPA về các đánh giá rủi ro khác nhau:
Khả năng gây ung thư của con người: “EPA đã hai lần gần đây xem xét các nghiên cứu dịch tễ học có liên quan đến ung thư của 2,4–D. Trong đánh giá đầu tiên, hoàn thành 14 tháng 1 năm 2004, EPA đã kết luận không có bằng chứng bổ sung để cho rằng 2,4–D là một nguyên nhân gây ra ung thư (EPA, 2004). Việc xem xét lần thứ hai về nghiên cứu dịch tễ học đã có sẵn để đáp ứng với ý kiến nhận được trong giai đoạn 3 – thời gian phản biện của xã hội về quyết định đủ tiêu chuẩn để tái đăng ký 2.4–D. Tiến sỹ Jerry Blondell trong báo cáo ngày 08 tháng 12 năm 2004 của EPA đã chỉ ra rằng không có bất kỳ nghiên cứu dịch tế học nào dứt khoát kết luận có sự liên kết các trường hợp ung thư ở người với 2,4–D.
Nguy cơ trong chế độ ăn uống: “Độ độc cấp tính và mãn tính của thực phẩm và nước uống biểu hiện trong chế độ ăn uống hàng ngày không vượt quá mức độ quan tâm của EPA; Vì vậy, không cần có hạn chế nào được đưa ra. Điều này được bảo đảm vào thời điểm hiện tại đối với bất kỳ chế độ ăn uống có liên quan đến 2,4–D.”
Nguy cơ trong khu dân cư: “Trong các đánh giá rủi ro đầu tiên, khi xem xét riêng biệt, các nguy cơ do độc cấp tính và ngắn hạn gây ra bởi việc sử dụng 2,4–D ở khu dân cư đã không quan tâm đến các lưu ý của EPA. Tuy nhiên, khi xem xét sự tiếp xúc tổng hợp với thức ăn và nước uống, thì đã vượt quá mức độ quan tâm của EPA. Kết quả là, các nhà đăng ký 2,4–D đồng ý giảm lượng sử dụng tối đa từ 2,0 lbs ae/A xuống 1,5 lbs ae/A (khoảng 20kg a.i/ha giảm xuống 15kg a.i/ha) đối với những bãi cỏ công cộng và cỏ trong khu dân cư. Độc mãn tính của người dân do tiếp xúc với 2,4-D không xảy ra nếu sử dụng nó theo chỉ dẫn”.
Tổng hợp rủi ro: “Trong đánh giá rủi ro sơ bộ và sửa đổi, các dữ liệu về tiếp xúc cấp tính và phơi nhiễm ước tính vượt quá mức độ quan tâm của EPA. Kết quả là các nhà đăng ký 2,4–D đồng ý giảm lượng sử dụng tối đa trên các bãi cỏ công cộng và cỏ trong khu dân cư từ 2.0 lbs ae/A xuống 1.5 lbs ae/A. Việc đánh giá rủi ro hiện tại vẫn xem xét giảm sự tiếp xúc thông qua giảm lượng sử dụng trên những bãi cỏ ở khu dân cư”.
Rủi ro nghề nghiệp: “Ngoại trừ việc trộn hoặc pha thuốc bột thấm nước thì mức độ phơi nhiễm (MOE – margin of exposure)2 với thời gian ngắn và trung bình đều vượt quá 100 với trang bị bảo hộ lao động (như: áo sơ mi dài tay, quần dài, giày với tất, mặt nạ) hoặc rất đơn giản (như: áo sơ mi dài tay, quần dài, giày với tất, găng tay, không có mặt nạ) là hoàn toàn không cần quan tâm. Các mức phơi nhiễm để xử lý bột thấm nước là trên 100 khi có người chuyên trách kiểm soát”.
Độc tính: “Với rất ít ngoại lệ, những ảnh hưởng và độc tính tương đối của các dạng muối và este của 2,4–D là khá tương đồng với dạng acid. Do đó, dạng acid đã được lựa chọn như là đại diện của tất cả các trường hợp tái đăng ký 2,4–D (Trường hợp số 0073). Các dạng của 2,4–D thể hiện độc tính cấp tính nhẹ với ngoại lệ của hai dạng acid và muối gây dị ứng mắt nghiêm trọng. EPA đã xem xét tất cả các nghiên cứu độc tính nộp cho 2,4–D và đã xác định rằng cơ sở dữ liệu độc hại là đủ để tái đăng ký”.
Đột biến: “Dựa trên mô hình tổng thể của phản ứng quan sát kiểm tra đột biến gien bằng in vitro và in vivo thì thấy rằng 2,4–D không gây đột biến, mặc dù đã có một số biến đổi về di truyền của tế bào. Acid 2,4–D hiện đang được coi là đại diện của tất cả dạng khác của 2,4–D”.
Hấp thụ qua da: “đối với tiếp xúc da, EPA trước đây lựa chọn yếu tố hấp thụ qua da là 5.8% dựa trên mức liều giá trị trung bình hấp thụ từ một nghiên cứu. Yếu tố đó (5.8%) được sử dụng trong các lần đánh giá rủi ro sức khỏe con người trước đây. Dựa trên ý kiến nhận được trong giai đoạn 5 – giai đoạn phản biện, các nghiên cứu sự hấp thụ qua da được xem xét lại. Để giải thích cho sự thay đổi quan sát trong nghiên cứu sự hấp thụ qua da, yếu tố hấp thụ được thay đổi từ 5.8% lên 10%. Trong “Đánh giá lại việc sử dụng của 2,4–D trên các bãi cỏ”, được soạn thảo cho xã hội góp ý, Bộ Y tế Canada cũng chọn yếu tố 10% dựa trên giá trị của những kết quả từ một số nghiên cứu được công bố, có tính đến sự thay đổi trong các dữ liệu và những hạn chế của nghiên cứu khác nhau”.
Rủi ro sinh thái: “Các biện pháp để kiểm soát thuốc phun bị cuốn đi (gió, dòng nước,...), được kỳ vọng sẽ làm giảm nguy cơ của 2,4–D cho các cây trồng không phải đối tượng xử lý. Lượng sử dụng tối đa được giảm từ 2,0 lbs ae/A xuống 1,5 lbs ae/A. Thực hiện đúng như được nêu trong Nhãn Gốc3 sẽ giảm được lượng sử dụng so với nhãn đang lưu hành cho các cánh đồng trồng ngô vùng đất hoang hóa, vùng đất chưa trồng trọt, cỏ vùng ngập nước, đậu tương,...”.
Các rủi ro cận kề ở khu dân cư: Độ phơi nhiễm (MOE) đối với các khu là dân cư là 1.800 khi sử dụng máy phun nước và 29.000 cho hỗn hợp dạng hạt (kết hợp thuốc trừ cỏ và phân bón). Trong khi Độ phơi nhiễm 1.000 đã được coi là “không đáng lưu tâm.”
Trong Quyết định đủ tiêu chuẩn để tái đăng ký, EPA yêu cầu bổ sung thêm các dữ liệu liên quan đến độc tố và số phận môi trường: Nghiên cứu độc tính thần kinh phát triển (DNT); Nghiên cứu sinh sản Multigeneration (Repro); Nghiên cứu độc tính qua không khí trong 28 ngày; Ảnh hưởng của các dạng axit, amin và este đối với các cây trồng không phải là đối tượng phòng trừ; Các thử nghiệm dư lượng trên lúa mì và các cây trồng hay tưới: dâu tây và củ cải đường.Tính đến tháng 2 năm 2010 tất cả các yêu cầu đòi hỏi và những thiếu sót về dữ liệu đã được nộp.
17/3/2016
D.A.M
Bản dịch từ link: EPA Reregistration Eligibility Decision - 24D.org www.24d.org/.../ Backgrounder-24d-U.S. %20 EPA, %20 Reregistration%...
Chú thích:
1Task Force II: Đây là một nhóm các nhà sản xuất thuốc trừ dịch hại bao gồm Dow AgroSciences (Mỹ), Nufarm Ltd (Australia) và Agro–Gor Corp (một công ty Mỹ đồng sở hữu bởi Atanor, SA–Argentina) và PBI–Gordon Corp (Mỹ).
2 MOE (Margin of Exposure): Mức độ phơi nhiễm là một chỉ số giữa mức độ ảnh hưởng của độc tố với liều tiếp xúc được ước tính. Nó được sử dụng trong đánh giá rủi ro để xác định độ nguy hiểm của các hoạt chất có ảnh hưởng đến di truyền và gây ung thư hay không. Cách tiếp cận này được ưa thích bởi cả Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Cơ quan An toàn Thực phẩm châu Âu (EFSA) cho việc đánh giá nguy cơ gây ung thư. Nói chung, MOE càng nhỏ (chênh lệch giữa mức độ ảnh hưởng của độ độc và liều tiếp xúc càng nhỏ) thì hoạt chất càng độc và ngược lại càng lớn thì càng ít độc.
3 Nhãn Gốc (Master Label): Ở Mỹ một nhãn gốc là nhãn có tất cả các đòi hỏi của cơ quan quản lý chuyên ngành và định hướng cho tất cả các nhãn mác cần thiết có liên quan để áp dụng cho những ứng dụng đã được phê duyệt của một sản phẩm nhất định. Tất cả các nhãn khác cho sản phẩm đó không được chứa bất kỳ nội dung nào vượt quá điều mà được chấp nhận trong Nhãn Gốc. Trong hồ sơ lưu trữ của EPA, Nhãn này được đóng dấu “chấp nhận”. Trong bài này thì lượng sử dụng của 2,4–D được “chấp nhận” là 15 – 20 kg a.i/ha nhưng vì để an toàn hơn nên chỉ sử dụng 15 kg a.i/ha.